Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Lễ phục Việt Nam (Bài 2): Lễ phục xu hướng truyền thống.

Trong khi cổ của họ cũng không cao đủ để chịu đựng cái cổ áo cao, cứng ngắc

Lễ phục Việt Nam (Bài 2): Lễ phục truyền thống

Ba dạng lễ phục truyền thống Việt Nam Lễ phục truyền thống Việt Nam khá đa dạng. Áo may rất rộng, xẻ bên hông. Nhưng chuyện không thành vì y phục truyền thống của các nước đó đều khác biệt rõ nét.

Mỗi thân trước, sau gồm 2 mảnh nối lại với nhau dọc giữa thân, thêm tà phụ bên phải trong vạt trước cho kín đáo. Sau này từ thời vải tây thiên nhập vào với khổ rộng, hai tà trước không phải nối, áo dài trở nên 3 thân như hiện tại.

Áo nhật bình của các sư sãi trong nước cũng thuộc dạng trực lĩnh. Ngoại giả cũng có trường hợp muốn tạo ra y phục tổng hợp cho các dân tộc, nhưng chưa thấy kết quả.

Tiếc rằng hiện tại cả áo dài lẫn khăn xếp nam phái ở nước ta thường bị nữ hóa để trở thành lòe loẹt, thõng thượt, mất hết sự trang trọng và vẻ nam tính. Áo dài 5 thân cổ đứng cũng thuộc dạng bàn lĩnh. Trịnh Bách Thể thao & Văn hóa Cuối tuần. Các nước Đồng văn trọng Khổng giáo ở Á châu như Trung Quốc, Nhật, Hàn và Việt Nam đều có áo này.

Trước đó người Mãn Thanh cũng không thành công trong việc dung hòa xống áo Hán, Mãn. Đây là lễ phục trang trọng nhất trong các lễ phục cựu truyền, được mặc trong các lễ tế. Áo được xẻ vạt bên hông. Áo được mặc trong các lễ đại triều, triều yến. Trong khi đó các nam đạo sĩ Lão giáo bên Trung Quốc lại có mặc áo được cắt giống hệt như áo mệnh phụ của đàn bà Việt.

Lễ phục trực lĩnh may rộng, xẻ bên, và có tay cắt thụng dài bằng gấu. Bàn lĩnh tức áo cắt cổ tròn, có hoặc không cổ, vạt cài sang phải, là loại lễ phục phổ thông nhất ở nước ta trước đây. Các cụ ta luôn tôn trọng tính kín đáo của phụ nữ Việt và cũng hiểu rất rõ các ưu và tội trong nhân dáng của người mình.

Từ năm 1867, Elizabeth được phong làm nữ hoàng của Hungary, Bohemia và Croatia.

Theo cách này thì ngày xưa nước ta có ba dạng lễ phục: giao lĩnh, trực lĩnh và bàn lĩnh. Trong triều còn loại giao lĩnh gọi là phổ (bổ) phục, may bằng vải thanh cát để mặc trong các lễ thường, những buổi tập luyện cho các kỳ đại tế. Cũng vì lý do này mà dù vắt nhiều, nhưng các đại phu nhân họ Tống của thời Dân Quốc đầu thập niên 1920 bên Trung Hoa cũng không thành công trong việc quảng bá áo xường xám của họ vào lịch sử y phục Trung Quốc.

Để cho đến mấy mươi năm trước đây nữ giới Bắc Bộ vẫn còn thư thả với “quần không đáy” và áo tứ thân. Các loại trang phục này được phân loại theo hình dạng

Lễ phục Việt Nam (Bài 2): Lễ phục truyền thống

Cách cắt tay áo và ngực ôm trong khi eo và tà buông thả của áo dài cựu truyền cũng để cho người nữ giới già trẻ, béo gầy hay cao thấp khi mặc vào trông cũng đều trang nhã.

Ở nước ta, sự kế tiếp truyền nối trải dài từ thời Đinh, Lý lập quốc được trình bày cho đến triều Nguyễn, trước khi bị chặn đứng bởi nền văn hóa ngoại lai do thực dân tây thiên áp đặt từ cuối thế kỷ 19. Áo xường xám nên chi chưa bao giờ được giới sành điệu trên thế giới chú ý, và luôn bị cho là một phiên bản không thành công từ áo dài Việt Nam. Từ thời Pháp thuộc cho đến nay đã có không sao nhiêu người ráng thay đổi cái áo dài phụ nữ, nhưng phần đông vì không hiểu các lề luật về tâm hồn Việt, cũng như thiếu quan tâm về vấn đề nhân dáng, mỹ thuật nên không thành công.

Thường trong các buổi lễ người ta mặc áo dài, và chỉ khoác áo bào vào khi hành lễ. Lễ phục trực lĩnh trong cung thời Nguyễn dành riêng cho các bà và gọi là áo mệnh phụ. Gọi là 5 thân, hay 5 tà, vì áo được ghép bằng 5 mảnh vải.

Dưới thời Nguyễn ở Việt Nam đàn bà không mặc giao lĩnh. Giao lĩnh, bàn lĩnh, bàn cổ đứng, trực lĩnh Lễ phục bàn lĩnh phổ quát nhất ngày xưa của người Việt có cổ đứng, gọi là áo tấc.

Và các dân tộc này rất hãnh diện với nền văn hóa riêng của họ, bởi vậy nếu áp đặt sẽ dễ gây hận thù, hiểm. Áo rất rộng, xẻ bên, tay cắt thụng dài bằng gấu áo. Xiêm Việc vắt đổi thay quan niệm trang phục truyền thống lâu đời của một dân tộc thường không đạt kết quả.

Nhưng người Nhật vẫn được cả thế giới kính nể vì những tiến bộ về kinh tế, khoa học, song song với văn hóa truyền thống của họ, mà không cần mẫu tự Latin. Ở Việt Nam thì sau bao năm vua Minh Mạng vẫn không khiến được dân Đàng Ngoài ăn mặc theo lối Đàng Trong.

Một người béo bụng nhưng vì không hiểu biết mà muốn mặc áo dài bó eo chặt thì thật phản cảm, mất thẩm mỹ. Giao lĩnh có cổ cắt vạt chéo cài sang bên phải. Lấy thí dụ ở áo dài Việt Nam. Và người Nhật rất kiêu hãnh với lễ phục truyền thống nghìn năm tuổi rất rườm rà, nhưng được cả thế giới ái mộ.

Khi mặc giao lĩnh thì trên đầu phải đội mũ, miện. Tay áo cắt thụng, khi buông xuống dài bằng gấu áo. Hiện thời trong nhiều lễ tế đình ở các làng, xã, người mình vẫn mặc áo giao lĩnh. Tự cổ chí kim không nước nào khác trên thế giới có hai loại trang phục này ngoài nước ta.

Ngoại giả còn một chi tiết rất quan trọng trong quy định về lễ, triều phục ngày xưa, là khi mặc áo lễ không được để lộ cho thấy quần. Áo dài 5 thân được mặc vào trong hết thảy các loại áo bào kể trên khi làm lễ. Ở trong cung áo này được cả nam lẫn nữ sử dụng dưới dạng long, phượng, và mãng bào; cho vua, hậu phi, và các vương công, quan liêu mặc trong đại lễ

Lễ phục Việt Nam (Bài 2): Lễ phục truyền thống

Áo cũng cắt rộng, xẻ bên, với tay thụng dài bằng gấu, cài khuy phải như áo dài, đi đôi với khăn vấn cho cả nam lẫn nữ, và sau này là khăn xếp cho đàn ông. Tiêu biểu là núm của Hoàng hậu “Sissi” Elizabeth (1854-1898) của Áo. Như thế để cho cái cổ thường không cao của phụ nữ Việt trông cao và thanh tú hơn khi mặc áo dài.

Bà thật sự yêu mến các dân tộc này, và muốn hòa đồng với ắt bằng cách tạo ra một trang phục chung có đủ ý thức của cả bốn nước, để tiện cho các dịp lễ trong toàn thể đế quốc Áo - Hung.

Xuân, Hạ, thì may bằng vải mỏng như sa, the. Ở ngoài phố, khi có khách đến thăm bất ngờ thì chủ nhà cũng chỉ khoác vội lên người cái áo dài là xong.

Tóc luôn phải giấu giếm trong khăn và cổ vì phong tục mà phải che kín đấy, nhưng các cụ biến khăn cuộn tóc thành nhỏ gọn để khoe gáy, trong khi cổ áo rất thấp và ôm cổ. Các áo lễ mùa Thu, Đông được may bằng các loại vải dày như gấm, đoạn.

Áo trực lĩnh phổ thông nhất ngoài dân gian là áo dài tứ thân của phụ nữ miền quê Bắc Bộ, nhưng không thuộc chủng loại lễ phục. Phải cắt như thế vì khổ vải ngày xưa rất hẹp. Cũng vì khổ vải xưa hẹp thành thử tay áo dài 5 thân phải nối ở gần khuỷu.

Gấu áo rộng trên 70 cm để ôm tà, gấu áo trước được cắt võng. Áo dài nam có gấu ngắn đến dưới đầu gối, trong khi áo nữ giới dài đến dưới bắp chân. Vào các dịp tiếp tân trọng đại trong triều đình thời cuối Nguyễn, người ta đeo thêm các huân, huy chương, hay bội tinh với dải đeo (sash), lên áo dài.

Áo được may bằng gấm thất thể quý hiếm, có cổ tròn. Hành lễ xong lại chỉ mặc áo dài. Áo này được mặc trong các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ như cưới xin, cũng như các việc viếng thăm quan yếu.

Cổ áo nam cao khoảng 3,5 cm. Nhưng cách phổ biến hơn là gọi tên theo cách cắt của cổ áo. Y phục và chữ theo lối Tây phương quả có nhiều thuận tiện. Cao cấp hơn cả của loại này là áo cổn ở trong cung, may bằng đoạn thất thể rất quý hiếm, thường được vua, quan mặc trong lễ tế giao.

Trực lĩnh có vạt xẻ dọc ở giữa thân trước. Chân phụ nữ Trung Hoa phần lớn không thon dài đủ để được khoe ra như thế. Một hoàng phi trong áo tấc nữ Những sáng tạo bất thành Trước nay cũng đã có nhiều dự kiến sáng tạo ra lễ phục, hay ít nhất là y phục phổ biến, trên thế giới (tỷ dụ như áo đại cán của Trung Quốc, hay áo Nehru ở Ấn Độ) nhưng chỉ xuất hiện thoảng qua rồi thất sủng vì không hợp với hồn dân tộc hay thẩm mỹ.

Áo tấc (bàn lĩnh) với cổ đứng và áo dài là 2 loại lễ phục đặc trưng Việt.

Cổ áo năm thân nữ giới xưa thấp khoảng 2 đến 2,5 cm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét